Giáo án thao giảng bài Nhàn- Nguyễn Bỉnh Khiêm
Giáo viên giảng (Kết hợp chiếu slide)
Cuộc đời:
– Tên huý là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ
– Xuất thân từ gia đình trí thức phong kiến:
+ Cha là Văn Định hiệu là Cù Xuyên tiên sinh, một nho sinh bình dân nhưng nhờ thông minh hiếu học nên được thượng thư Nhữ Văn Lan gả con gái cho.
+ Mẹ là người am hiểu kinh sử, giỏi văn chương và tinh thông lí số.
+ Bản thân được thụ giáo Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng – người có uy vọng chính trị và nổi tiếng văn chương thờiđó.
+ Lúc còn trẻ Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh nho ẩn dậtà 44 tuổi mớiđi thi và đỗ Trạng Nguyên thời MạcĐăng Doanh à Làm quan 8 năm dâng sớ chém 18 lộng thần không đượcà về quê lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy họcà được học trò suy tôn là Tuyết Giang phu tử.
– Dù là lúc làm quan hay khi về quêởẩn, mở trường dạy học thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn nặng lòng với đất nước với thờiđại. Ông là không chỉ là một nhà thơ lớn mà còn là một nhân vật lịch sử quan trọng cóảnh hưởng lớn tới thế cục của thờiđại.
Câu hỏi:Bài thơ Nhàn được rút từ tập thơ nào? Em hãy giới thiệu vài nét khái quát về văn bản
Học sinh căn cứ vào tiểu dẫn để trả lời
Giáo viên yêu cầu Học sinh đọc thơ
Câu hỏi: Em hiểu thế nào là Nhàn?
Học sinh trả lời theo cách hiểu nội dung ý nghĩa từ Nhàn theo nghĩa từđiển.
Giáo viên: Quan niệm Nhàn trong Nho giáo là phépứng xử với thời loạn của giới Nho sĩ, bất hợp tác với chính quyền thời loạn. Quan niệm Nhàn của Đạo và Phật là cái Nhàn tuyệt đối: “Vong hồ vật, vong hồ thiên. Kì danh vi vong kỉ, vong kỉ chi nhân, thị chi vị nhập vu thiên. (Quên thế giới bên ngoài, quên cả trời, đó gọi là quên bản thân mình. Người quên bản thân mình gọi là nhập vào cảnh giới trời)”
àSoi chiếu vào các sáng tác của nho sĩ Việt ta thấy, hầu hết vẫn nằm trong vòng cương tỏa của chữ “nhàn” của Nho giáo: Khát khao sống nhàn, vui thú điền viên nhưng trong lòng vẫn luôn day dứt một “niềm ưu ái cũ”.
Nhà nho đối diện với thiên nhiên để dốc bầu tâm sự, hòa mình với thiên nhiên để quên đi những day dứt, đau đớn vì cuộc đời. Hình tượng thiên nhiên khi đó trở thành bầu bạn, tri kỷ của nho sĩ.
Trong tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi tập:
– Nhàn: sống theo tự nhiên, hoà hợp với tự nhiên, trong sạch, phủ nhận danh lợià bản chất: Nhàn thân mà không nhàn tâm, vẫn lo âu việc nước, việc đời.
– Ca ngợi con người thanh cao không màng danh lợi
1. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) hiệu là Bạch Vân cư sĩ, Trạng Trình, hay Tuyết Giang phu tử.
a. Cuộc đời
– Xuất thận từ gia đình trí thức phong kiến, được hưởng một quá trình giáo dục đầyđủ và bài bản
– Có cuộc đời từng trải, chứng kiến nhiều biến cố bão táp của thờiđại
b. Con người
– Học vấn uyên thâm
– Thanh cao, chính trực
– Nặng mối tiên ưu
c. Sự nghiệp văn học
– Bạch Vân am thi tập (700 bài) Bạch Vân quốc ngữ thi tập (~ 170 bài), ngoài ra có một số lời sấm kí lưu truyền trong dân gian
– Nội dung: với các chủ đề triết lí, giáo huấn, thế sự
à Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc.
2. Tác phẩm
– Viết bằng chữ Nôm, thuộc Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài số 73 – Nhan đề do người đời sau đặt
– Thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật
– Chủ đề: triết lí Nhàn
+ Nhàn: Nhàn là cóít hoặc không có việc gì phải làm, phải lo nghĩ đến
+ Chữ Nhàn trong quan niệm thời trung đại:
Nho giáo: “Nhàn” là một phương châm sống, một chuẩn tắc trong hành xử của tầng lớp Nho sĩ. “Nhàn chính là để giữ tròn thanh danh, khí tiết của bản thân trong thời trọc loạn.
Đạo giáo – Phật giáo: là một trạng thái đạt đến cảnh giới tối cao, an tịnh, siêu thoát của “hư tâm”, “tâm phật”.
→ Trong thơ trung đại Việt Nam: Tư tưởng “nhàn” được thể hiện qua cách xuất – xử; hành – tàng của tầng lớp Nho sĩ trước thời cuộc, họ thường gửi gắm vào thiên nhiên tâm sự của bản thân về thế sự.
→ Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nhàn là một nội dung lớn đồng thời là triết lí sống phổ biến của tầng lớp nho sĩ thế kỉ XVI
Trong bài thơ chưa một lần tác giả nhắc hay viết chữ Nhàn nhưng ông đã thể hiện qua niệm của mình về chữ Nhàn, triết lí sống nhàn qua cách nói về cảnh vật.
Câu hỏi: Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu trong hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý. Từ đó em cảm nhận như thế nào về hoàn cảnh và cuộc sống của tác giả?
– “Một mai, một cuốc, một cần câu” trở về với cuộc sống thuần hậu chất phác của một lão nông tri điềnđào giếng lấy nước uống và cày ruộng lấy cơm ăn.
Tác giả sử dụng kết hợp khéo léo thủ pháp liệt kê các dụng cụ lao động cùng vớiđiệp từ “một” và nhịp thơ 2/2/3 cho thấy cuộc sống nơi thôn dã cái gì cũng có, tất cảđã sẵn sàng
à Các vật dụng gắn liền với công việc lấm láp, vất vả của người nông dân đi vào thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm một cách tự nhiên, thư thái như chính tâm hồn của nhà thơ, giống như những vật dụngấy dùng để làm việc: Cày mây, cuốc nguyệt, gánh yên hà/ Nào của nào chẳng phải của ta? (Thơ Nôm bài 17)
Con người tìm thấy niềm vui, sự thanh thàn trong cuộc sống, không gợi chút mưu tục. Một mình ta lựa chọn cách sống “thơ thẩn” mặc kệ ai kia “vui thú nào”. Tự mình lựa chọn cho mình một lối sống, một cách sống kệ ai có những thú riêng, âu đó cũng là bản lĩnh của kẻ sĩ trước thời cuộc.
Câu hỏi: Em hiểu thế nào về nơi vắng vẻ – chốn lao xao? Từ đó em hiểu thế về cách nói: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao?
Gợiý: Học sinh giải nghĩa hai từ Vắng vẻ và lao xao
Từ việc lựa chọn cho mình một cuộc sống bình dị hàng ngày, không vướng bận nhưng bọn chen, ganh đua danh lợi, Nguyễn Bình Khiêm còn thể hiện quan niệm sống thảnh thơi, an nhiên tự tại qua bốn câu thơ cuối để từđó toát lên vẻđẹp nhân cách của nhà thơ.
Tuy nhiên, dường như ta vẫn có cảm giác hình nhưẩn sau cái vẻ thư thái sẵn sàng với mọi việc ruộng đồng của nhà nông ấy, còn có một chút gì hụt hẫng, mất mát của nhân vật trữ tình. Soi vào cuộc đời và thờiđại mà Nguyễn Bỉnh Khiêm sống, ta cảm nhận được việcông vềởẩn là cực chẳngđã, là giới hạn cuối cùng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng làẩn sĩ trước khi làm quan, năm 44 tuổi mớiđi thi đỗ trạng nguyên triều Mạc nhưng chỉ làm quan 8 năm sau khi dâng sớ chém 18 tên lộng thần không đượcông mới một lần nữa vềởẩn. Do vậy, Nguyễn Bỉnh Khiểmởẩn nhưng thực không ẩn. Vì các vua chúa phong kiến vẫn không ngừng đến gặpông xin kế sách. Không phải vô cớ màông “khoe” cảnhđiền viên ruộng vườn. Rõ là bề ngoài vui với cuộc sống nơi thôn dã nhưng trong lòng vẫn nặng mối tiên ưu
Câu hỏi: Em thử cho biết những hình ảnh về sự vật nào được xuất hiện. Những sự vật và hình ảnh đó gợi cho em cảm nhận như thế nào về cách sống của nhà thơ?
Nhàn là “Thu ăn măng trúc đông ăn giá”, mùa nào thức nấy. Những sản vật không phải cao lương mĩ vị mà đậm màu sắc thôn quê. Ngay cả việc ăn uống, tắm táp, làm lụng … đã trở thành nhàn trong cái nhìn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Để có được sự an nhiên, tĩnh tại trong tâm hồn như vậy phải là một người có nhận thức sâu sắc của cuộc đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nhận thấy lòng tham chính là căn nguyên của tội lỗi. Bởi vậy mà ông hướng đến lối sống thanh bạch, giản dị, thuận theo tự nhiên
Học sinh đọc chú thích trong sách giáo khoa về điển tích
– Tác giả mượn điển tích của người xưa để nói điều mình suy nghĩa đây là thủ pháp quen thuộc của văn học trung đại. Nguyễn Bỉnh Khiêm coi công danh phú quý tựa như giấc chiêm bao, giống như phù du vậy. Khi thể hiện quan điểm của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn mình thế đứng bên ngoài của sự cám dỗ danh lợi, vinh hoa – phú quý, bộc lộ thái độ xem thường.
Câu hỏi: Cả bài thơ là triết lí, suy nghĩ của Bạch Vân cư sĩ về chữ Nhàn. Căn cứ vào những hiểu biết về thời đại cũng như về Nguyễn Bỉnh Khiêm, em hãy cho biết do đâu mà Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn lối sống Nhàn?
Giáo viên: Từ Nguyễn Trãi cho đến Nguyễn Bỉnh Khiêm đều tìm về cuộc sống thanh đạm, hoàhợp vói tự nhiên nhưng nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Tuy gắn bó, hoà mình với cuộc sống nơi thôn dã nhưng xét đến cùngông vẫn đầy trăn trở trong lòng về thời cuộc rối ren, về việc con người dễ sa ngã vào vòng danh lợi. Nhàn là lối sống tích cực, là thái độ của giới trí thức thời Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với thời cuộc để cố gắng giữ mình trong sạch, không bị cuốn vào vòng đấu giành quyền lực của các tậpđoàn phong kiến.Triết lý “nhàn dật” của Nguyễn Bỉnh Khiêm với hạt nhân “vô sự” chưa phải là giải pháp tối ưu để định hướng cho xã hội phát triển và đó cũng không phải là lối thoát của xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI. Tuy nhiên, triết lý ấy đã thể hiện được nỗ lực cứu vãn xã hội của tầng lớp trí thức đương thời. Đó là điều đáng trân trọng.
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc ghi nhớ sách giáo khoa và chiếu slide chốt ý.
1. Đọc – tìm hiểu bố cục
– Bốn câu đầu: Cuộc sống hàng ngày của nhà thơ
– Bốn câu sau: Quan niệm sống và vẻđẹp nhân cách nhà thơ
2. Phân tích
a. Cuộc sống hằng ngày của nhà thơ (Đề, thực)
Hai câu đề:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thần dầu ai vui thú nào.
– Câu 1: Một mai, một cuốc, một cần câu à Gợi liên tưởng tới hìnhảnh: Ngư – tiều – canh – mục
+ Sử dụng thủ pháp liệt kê: mai, cuốc, cần câu
+ Điệp từ: một
+ Nhịp thơ 2/2/3
à Hìnhảnh lão nông tri điền với cuộc sốngđạm bạc, giản dị nơi thôn dã
– Câu 2:
+ Từ láy: thơ thẩn
+ Cụm từ: Dầu ai vui thú nào
à Cuộc sống ung dung tự tại
è Lối sống vui thúđiền viên, an nhiên tự tại
Hai câu thực:
– Thủ pháp đối lập và cách nóiẩn dụ
+ Ta dại↔ Người khôn
+ Nơi vắng vẻ↔ chốn lao xao → hìnhảnhẩn dụ: Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên, nơi tâm hồn tìm thấy sự thảnh thơi; chốn lao xao là nơi quan trường, nơi bon chen quyền lực và danh lợi
à Phác hoạ hìnhảnh về lối sống của hai kiểu người Dại – Khôn → triết lí về Dại – Khôn của cuộc đời cũng là cách hành xử của tầng lớp nho sĩ thời bấy giờà Cách nói ngược, hóm hỉnh, thâm trầm màý vị
Nhận xét: Trong cuộc sống hàng ngày, với Nguyễn Bỉnh Khiêm, lối sống Nhàn là hoà hợp với đời sống lao động bình dị, an nhiên vui vẻ tránh xa vòng danh lợi, bon chen chốn vinh hoa, phú quý.
.
b. Quan niệm sống và vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ (luận, kết)
Hai câu luận:
– Hình ảnh thiên nhiên: bốn mùa tuần hoàn Xuân – Hạ – Thu – Đông
– Món ăn dân dã: măng trúc, giá
– Sinh hoạt: tắm hồ sen, tắm ao
phép đối + liệt kê tạ oâm hưởng thư thái, tận hưởng
Lối sống hoà hợp, thuận theo tự nhiên
Hai câu kết:
+ Điển tích: Rượu đến cội cây, sẽ uống, Phú quý tựa chiêm bao
+ Nhìn xem: biểu hiện thế đứng từ bên ngoài, coi thường danh lợi
Khẳng định lối sống mà mình đã chủ động lựa chọn, đứng
ngoài vòng cám dỗ của vinh hoa phú quý
Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy an nhiên, vui vẻ bởi thi sĩ được hoà hợp với tự nhiên, nương theo tự nhiên để di dưỡng tinh thần, đồng thời giữ được cột cách thanh cao, không bị cuốn vào vòng danh lợi tầm thường.
Nhận xét
– Thú Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là dấuấn của một thờiđại lịch sử, thể hiện cách ứng xử của người trí thức trước thời loạn: giữ tròn thanh danh khí tiết
– Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nâng tư tưởng “nhàn” trở thành một triết lý sống, là cách hành xử trước thời cuộc, coi đây là phương thức hoá giải mâu thuẫn và hoà hoãn những xung đột thờiông đang sống.
à Tấm lòng nặng tiên ưu của Nguyễn Bỉnh Khiêm