Cảm nhận về bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Dưới đây là hướng dẫn cảm nhận về bức tranh tứ bình trong bài thơ việt bắc mới nhất được cập nhập bởi wikisecret hãy cùng tham khảo dưới đây để làm bài tập trên lớp cảm nhận bức tranh tứ bình việt bắc , cảm nhận về bức tranh tứ bình nhé.

Video cảm nhận của anh chị về bức tranh tứ bình

Cảm nhận về bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu – Bài làm

Tố Hữu là người đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là nhà thơ có phong cách riêng trong sáng tác. Tô Hữu có giọng thơ trữ tình đằm thăm, các sáng tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường quan trọng của lịch sử dân tộc. Vì vậy thơ Tố Hữu vừa đậm đà tính dân tộc nhưng không tách rời tính hiện đại.

“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ TH, được sáng tác sau chiến thắng ĐBP , miền Bắc được hoàn toàn giải phóng . Những cơ quan Chính phủ rời Việt Bắc về thủ đô Hà nội.TH đã viết bài thơ để ôn lại một thời kì kháng chiến gian khổ và hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những con người kháng chiến đối với nhân dân VB, đối với quê hương cm. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn lớp 12 nằm ở phần I của bài thơ VB. Trong bề bộn của những kí ức và hoài niệm, bức tranh sáng, đẹp về VB hiện ra trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên của kỉ niệm:

” Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh rao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Câu đầu đoạn thơ như là lời ướm hỏi đầy lưu luyến của người ra đi đối với người ở lại. “Ta về mình có nhớ ta”. Câu trên là câu hỏi không cần câu trả lời, nó được nếu ra như một cái cớ cho sự giãi bày tâm tình ở câu dưới : “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên VB, mà cái đẹp của VB lại không thể tách rời cái đẹp của con người VB. Vì vậy , như một cặp song hành đối xứng, hễ nhớ dến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện lên dáng người.

Tám câu thơ tiếp theo vẽ ra bức tranh tứ bình về bốn mùa ở VB. Trong nền thơ ca và văn học VN, bức tranh tứ bình xuất hiện không ít , như khung cảnh ” trông bốn bề” trong “Chinh phụ ngâm” ( Đoàn Thị Điểm ) , đoạn ” buồn trông” trong “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” ( Nguyễn Du ) , hay ở dòng hồi tưởng về quá khứ huy hoàng của con hổ trong “Nhớ rừng” ( Thế Lữ ). Thế nhưng, trong VB, bức tranh bốn mùa hiện lên với vẻ đẹp và sắc thái thiên nhiên rất riêng theo trình tự : Đông – Xuân – Hạ – Thu.

Bước vào khung cảnh mùa đông VB, đôi mắt ta như bị choáng ngợp bởi sắc xanh bạt ngàn của núi rừng. Đâu đó hình ảnh hoa chuối bập bùng như những bó đuốc làm cho không gian trở nên ấm áp, xua tan đi vẻ lạnh lẽo, hoang vu vốn có của mùa đông. Trong ánh nắng dàn trải khắp không gian, ta thấy ánh lên tia sáng từ chiếc dao gài thắt lưng của một người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, nắng từ trên cao chói xuống dao ở thắt lưng, lóe sáng, Nó tạo ra một dáng vẻ vững chãi và khí thế của người làm chủ núi rừng.

Chuyển sang mùa xuân, màu xanh của cỏ cây nhường chỗ cho màu trắng tinh khiết , mơ mộng của hoa mơ. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên khi Bác về nước:

” Ôi sáng xuân nay, xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về …Im lặng, con chim hót

Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”

(Theo chân Bác – Tố Hữu )

Trên nền không gian trong sáng, tinh khôi đó, hình ảnh người đan nón cần mẫn, cẩn trọng chuốt từng sợi giang tạo cho ta cảm giác thật ấm áp và bình dị.

Mùa xuân đi qua, mùa hạ đến. Nhắm mắt và lắng tai nghe, ta sẽ cảm nhận được “nhạc ve”. Tác giả muốn nói đến tiếng ve kêu râm ran trong rừng phách vàng hay muốn nói chính tiếng ve kêu kéo màu vàng bao trùm lên rừng hoa phách ? Đây có thể nói là câu thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất của TH. Đọc câu thơ lên ta co thế cảm nhận được sự chuyển đổi từ thính giác sang thị giác trước khung cảnh thiên nhiên. Đặc biệt từ “đổ” gợi cho ta sự chuyển màu mau lẹ từ sắc trắng sang vàng , bừng sáng cả núi rừng VB. Ta chợt nhớ Khương Hữu Dụng cũng có một câu thơ có cấu trúc tương tự : “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Nếu Khuơng Hữu Dụng nhờ vào tiếng chim để khám phá ra vẻ đẹp thiên nhiên buổi bình minh thì Tố Hữu dựa vào tiếng ve đã kéo cả một mùa hè ra khỏi lớp vỏ cũ kĩ.

Hè đến, hình ảnh con người cũng xuất hiện với dáng vẻ hoàn toàn khác. Nếu như hai mùa trước, bóng dáng con người chỉ xuất hiện một cách gián tiếp và thấp thoáng thì lần này , con người VB hiện ra rõ nét và sinh động hơn rất nhiều, dưới hình ảnh một người thiếu nữ đang chăm chỉ hái măng một mình.

Từ ” cô em gái” mà tác giả sử dụng cất lên như lời gọi tình tứ, thân quen, thể hiện tình cảm chân thành , tha thiết. Ta chợt nhận ra dù bất cứ mùa nào, con người VB cũng hiện lên trong dáng vẻ lao động cần mẫn. Như vậy, trong đôi mắt tác giả , vẻ đẹp của co người chân chính gắn liền với vẻ đẹp lao động, chuyên cần.

Tạm biệt mùa hè với những gam màu rực rõ, mùa thu đến mang một cảm giác nhẹ nhàng, bình yên. MÙa thu với ánh trăng huyền ảo , trải dài khắp núi rừng làm ta liên tưởng đến câu thơ:

” Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

(Cảnh khuya – Hồ Chí Minh)

Trong thơ của Bác của Bác có tiếng hát của thiên nhiên thì trong thơ của Tố Hữu cũng có tiếng hát: tiếng hát của con người, tiếng hát giữa người ở và người đi. Có thể nói đây là bản hòa âm của hai tâm hồn đồng điệu. Tiếng hát ân tình ấy vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vướng vít bước chân người đi, nó vấn vương trong lòng người đi kẻ ở, vấn vương trong cả tâm hồn người đọc. Đặc biệt điệp từ “nhớ được lặp lại nhiều lần khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương da diết.

Bức tranh có buối trưa đầy ánh nắng, có bầu trời đêm mát dịu ánh trăng . Mùa nào cũng có nét đẹp, nét đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh thơ mộng. Nhờ đó mà bức tranh theo kiểu bộ tứ bình của nghệ thuật truyền thống Đông phương đã đạt đến độ hài hòa , cân xứng theo hai mảng xa và gần : mảng xa là thiên nhiên, mảng gần là con người, thiên nhiên và con người quấn quýt nhau. Thiên nhiên làm nền cho con người, con người thổi hồn mình vào cảnh thiên nhiên khiến thiên nhiên trở nên sống động và đẹp hơn. Tất cả hòa quyện vào nhau trong nỗi nhớ về VB của người ra đi. Cùng với giọng điệu tâm tình ngọt ngào, ngôn ngữ trữ tình, chính trị đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đó ta thấy được tình cảm sâu sắc, tha thiết của Tố Hữu dành cho thiên nhiên và con người nơi Việt Bắc, quê hương cách mạng.

Cảm nhận về bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu – Gợi ý

Đoạn trích này được xem là đặc sắc nhất Việt Bắc. 10 câu lục bát thu gọn cả sắc màu 4 mùa, cả âm thanh cuộc sống, cả thiên nhiên con người Việt Bắc.

“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Phép láy đầu câu “Ta về” nhấn nốt chủ âm xoáy vào câu hỏi người ở. Từ “ta” điệp lại trong cấu trúc “ta về ta nhớ” lại nhấn mạnh tình cảm người đi. “Ta nhớ hoa cùng người”. Hình ảnh hoa và người xuất hiện kế liền bên nhau trong nỗi nhớ của người đi làm ta liên tưởng tới câu ca “Người ta hoa đất” Tố Hữu lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng : hoa – người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, kết tinh từ hương đất sắc trời, tương xứng với con người là hoa của đất. Bởi vậy đoạn thơ được cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Nói đến hoa hiển hiện hình người, nói đến người lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau tỏa sáng bức tranh thơ. Bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình đặc sắc, trong đó nỗi nhớ đằm sâu làm tươi rói sắc màu tâm trạng:

Trước hết đó là nỗi nhớ mùa đông Việt Bắc – cái mùa đông thủa gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức.

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Câu thơ truyền thẳng đến người đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già. Cái màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái màu xanh chứa chất bao sức mạnh bí ẩn “Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng”. Màu xanh núi rừng Việt Bắc”:

“Rừng giăng thành lũy thép dμy
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn làm ấm cả không gian, ấm cả lòng người. Hai chữ “đỏ tươi” không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân. Câu thơ gợi nhớ hình ảnh thơ trong “Cuộc chia ly màu đỏ” của Nguyễn Mĩ:

“Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn ng ười”

Có thể thấy cái màu đỏ trong câu thơ Tố Hữu như điểm sáng hội tụ sức mạnh tiềm tàng chốn rừng xanh đại ngàn, lấp lóa một niềm tin rất thật, rất đẹp. Trên cái phông nền hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật vững trãi, tự tin. Đó là vẻ đẹp của con người làm chủ núi rừng, đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng với thiên nhiên, “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Chỉ một nét chấm phá: “Nắng ánh dao gài”, nhà thơ đã lột tả vẻ đẹp của con người Việt Bắc từ dáng vẻ đến tâm hồn.

Cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân) là sự chuyển màu trong bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc sang xuân. “Ngμy xuân mơ nở trắng rừng” Trắng cả không gian “trắng rừng”, trắng cả thời gian “ngμy xuân”. Hình ảnh này khá quen thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào trường ca “Theo chân Bác” gợi tả mùa xuân rất đặc trưng của Việt Bắc:

“Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”

Cái sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn người ở, thẫn thờ kẻ đi. Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại càng không thể không nhớ đến con người Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm lặng mà cần mẫn tài hoa:

“Nhớ ngươi đan nón chuốt từng sợi giang”

Hai chữ “chuốt từng” gợi lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón. Cảnh thì mơ mộng, tình thì đượm nồng. Hai câu thơ lưu giữ lại cả khí xuân, sắc xuân tình xuân vậy.Tài tình như thế thật hiếm thấy.

Bức tranh thơ thứ 3 chuyển qua rừng phách – một loại cây rất thường gặp ở Việt Bắc hơn bất cứ nơi đâu. Chọn phách cho cảnh hè là sự lựa chọn đặc sắc, bởi trong rừng phách nghe tiếng ve ran, ngắm sắc phấn vàng giữa những hàng cây cao vút, ta như cảm thấy sự hiện diện rõ rệt của mùa hè. Thơ viết mùa hè hay xưa nay hiếm, nên ta càng thêm quí câu thơ của Tố Hữu:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác rất thú vị: Tiếng ve kêu – ấn tượng của thính giác đã đem lại ấn tượng thị giác thật mạnh. Đây cũng là trường hợp câu thơ của Khương Hữu Dụng.

“Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”

Tiếng chim kêu trong thơ Khương Hữu Dũng mang chức năng đánh thức, thắp sáng cả một miền rừng, thì tiếng ve kêu trong thơ Tố Hữu còn mang ý vị đồ họa không những không gian mà cả thời gian. Sự chuyển mùa qua sự chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá. Khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc mμu, vừa diễn tả tμi tình từng đợt mưa hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảng khắc hè sang. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh cô em gái hiện lên xiết bao thơ mộng, lãng mạn: “Cô em gái hái măng một mình” nghe ngọt ngào thân th ương trìu mến. Nhớ về em, là nhớ cả một không gian đầy hương sắc. Người em gái trong công việc lao động hàng ngày giản dị: hái măng. Rất tự nhiên song là cả một công phu dựng cảnh: Rừng phách vào hè, những trận mưa đầu mùa gọi dậy những búp măng non, vừa nhu nhú lên mặt đất, trong lớp áo tơi mỏng kia, là nõn măng ngọt giòn. Những ngón tay khéo léo của em gái bóc lớp áo măng mỏng tang, hái lấy đọt măng non, nom thật mềm mại uyển chuyển. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn được tô đậm ở hai chữ “một mình” nghe cứ rưng rưng xao xuyến lạ, bộc lộ thầm kín niềm mến thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa…

Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua kẽ lá dệt lên mặt đất một thảm hoa trăng lung linh huyền ảo. Ta nhớ tới câu thơ:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

Dưới ánh trăng thu, tiếng hát ân tình càng làm cho cảnh thêm ấm áp tình người. Đại từ phiếm chỉ “Ai” đã gộp chung người hát đối đáp với mình làm một, tạo một hòa âm tâm hồn đầy bâng khuâng lưu luyến giữa kẻ ở, người đi, giữa con người và thiên nhiên.

Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc… Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách… Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.

Từ khóa tìm kiếm: cảm nhận việt bắc bức tranh tứ bình ,cảm nhận về bức tranh tứ bình trong đoạn thơ nhớ việt bắc

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button